KẾ TOÁN - THUẾ - DOANH NGHIỆP - LAO ĐỘNG

 

Previous topicNext topic

Bạn đang xem > Đề cương giới thiệu văn bản > > Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế

BỘ TƯ PHÁP

VỤ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

-------------------

BỘ TÀI CHÍNH

VỤ PHÁP CHẾ

------------

 

ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU

LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA CÁC LUẬT VỀ THUẾ

 

Ngày 26/11/2014 tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế (sau đây gọi tắt là Luật số 71/2014/QH13). Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015. Theo đó, Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế thu nhập cá nhân, Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế tài nguyên, Luật quản lý thuế.

I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT

1. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011- 2020 đã đề ra định hướng “Chính sách tài chính quốc gia phải động viên hợp lý, phân phối và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội; phân phối các lợi ích ngày càng công bằng; tiếp tục hoàn thiện chính sách và hệ thống thuế...”. Triển khai thực hiện định hướng này, về cải cách hệ thống thuế, Quyết định số 732/QĐ-TTg ngày 17/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 - 2020 đã xác định mục tiêu tổng quát “Xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, thống nhất, công bằng, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mức động viên hợp lý...; công tác quản lý thuế, phí và lệ phí thống nhất, minh bạch, đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện...”. Để thể chế hóa các chủ trương này, việc sửa đổi, bổ sung khắc phục các chính sách thuế không còn phù hợp với định hướng phát triển của Đảng và Nhà nước là rất cần thiết.

2. Nền kinh tế nước ta đang phải đối mặt với một loạt khó khăn: tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, người dân còn nhiều khó khăn; tổng cầu tăng chậm; tăng trưởng tín dụng thấp, các thị trường phục hồi và phát triển chậm; lượng hàng hóa tồn kho ở nhiều lĩnh vực còn lớn... Tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế - xã hội nước ta. Nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn buộc phải giải thể hoặc ngừng hoạt động (trong 9 tháng đầu năm 2014 là 48.330 nghìn doanh nghiệp, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm 2013, bao gồm: 7.027 doanh nghiệp giải thể; 8.440 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động có thời hạn; 32.863 doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ đóng mã số doanh nghiệp hoặc không đăng ký). Một số chính sách thuế không còn phù hợp với thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp như việc hạn chế chi phí quảng cáo khi xác định thu nhập chịu thuế, các vấn đề về ưu đãi liên quan đến đầu tư mở rộng, chính sách thuế giá trị gia tăng đối với mặt hàng phân bón, các vấn đề liên quan đến hồ sơ khai thuế... Trước những khó khăn đó, chính sách thuế là một trong những công cụ hữu hiệu nhất để góp phần giải quyết những khó khăn đối với các doanh nghiệp nói riêng và kinh tế đất nước nói chung. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung các chính sách thuế phù hợp với tình hình thực tiễn phát triển của đất nước sẽ đảm bảo một chính sách rõ ràng, minh bạch, đơn giản, giảm thủ tục hành chính và tạo thuận lợi cho người nộp thuế và công tác quả lý thuế, khuyến khích doanh nghiệp, cá nhân đầu tư, phát triển sản xuất, thu hút đầu tư qua đó sẽ tác động tích cực đối với kinh tế xã hội trong ngắn hạn cũng như dài hạn.

3. Với xu hướng phát triển nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam đã là thành viên của rất nhiều các tổ chức kinh tế, thương mại thế giới và đã ký nhiều Hiệp định liên quan đến các vấn đề hợp tác đầu tư, phát triển kinh tế với nhiều nước trên thế giới. Để nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, cần có chính sách phù hợp với thông lệ quốc tế và cam kết quốc tế hỗ trợ tích cực hơn đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam phát huy được các lợi thế, tận dụng được các cơ hội trong hội nhập kinh tế quốc tế đảm bảo tính nhất quán của chính sách, khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước, góp phần thúc đầy kinh doanh trong nước phát triển phù hợp với xu hướng thế giới. Từ những lý do trên, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung một số điều tại các Luật về thuế hiện hành.

II. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế được xây dựng trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo sau đây:

1. Hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông thôn, tập trung khai thác và tận dụng lợi thế của nền nông nghiệp, góp phần xây dựng và phát triển các vùng chuyên canh theo hình thức trang trại, khu nông nghiệp công nghệ cao, trong đó Nhà nước giữ vai trò hỗ trợ, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động của các thành phần kinh tế để tăng cường sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế.

2. Đảm bảo mục tiêu hội nhập kinh tế quốc tế, phù hợp với xu hướng phát triển; phù hợp với các cam kết quốc tế, với cam kết Hiệp định quốc tế Việt Nam đang tham gia đàm phán góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam.

3. Tiếp tục đảm bảo đơn giản, minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện, tạo thuận lợi cho người nộp thuế và đẩy mạnh cải cách hành chính và hiện đại hoá công tác quản lý thuế, phù hợp với xu thế cải cách hệ thống thuế.

4. Đảm bảo tính nhất quán của chính sách, theo đó tập trung sửa đổi, bổ sung những vấn đề bất cập so với thực tế, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật.

III. NHỮNG NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CỦA LUẬT

1. Về thuế thu nhập doanh nghiệp

1.1. Về ưu đãi đối với lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp

Trước thời điểm 01/01/2015, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) quy định:

- Miễn thuế TNDN đối với thu nhập từ trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản của doanh nghiệp ở địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn;

- Ưu đãi thuế 10% trong vòng 15 năm, miễn 4 năm giảm 50% trong 9 năm tiếp theo thu nhập từ trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản của doanh nghiệp tại địa bàn kinh tế khó khăn;

- Đồng thời, Luật thuế TNDN chỉ quy định miễn thuế đối với các khoản thu nhập từ hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trông thủy sản, sản xuất muối của Hợp tác xã và của doanh nghiệp.

Thực tế, cho thấy có những doanh nghiệp trong lĩnh vực trồng trọt có quy mô sử dụng lao động lớn (trên 300 lao động thường xuyên), đồng thời trực tiếp thực hiện bao tiêu toàn bộ sản phẩm nhưng thực hiện tại các địa bàn không thuộc địa bàn ưu đãi thuế nên chưa được hưởng ưu đãi. Trường hợp doanh nghiệp hoặc hợp tác xã thực hiện khâu chế biến sản phẩm nông thủy sản thì cũng không được ưu đãi đối với phần thu nhập từ hoạt động chế biến. Do vậy, chính sách ưu đãi này chưa thực sự khuyến khích hợp tác xã, doanh nghiệp có tiềm lực đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và đầu tư vào tất cả các khâu sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.

Nhằm thu hút doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân, khuyến khích phát triển nông nghiệp sản xuất lớn, Luật số 71/2014/QH13 đã bổ sung các ưu đãi thuế TNDN trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Cụ thể:

- Miễn thuế TNDN đối với thu nhập từ hoạt động chế biến nông sản, thủy sản của hợp tác xã và của doanh nghiệp tại địa bàn đặc biệt khó khăn (nội dung thể hiện tại Khoản 1 Điều 1 Luật số 71/2014/QH13);

- Áp dụng thuế suất 10% đối với thu nhập từ hoạt động chế biến nông sản, thủy sản của hợp tác xã và doanh nghiệp tại địa bàn kinh tế khó khăn (nội dung thể hiện tại khoản 6 Điều 1 Luật số 71/2014/QH13);

- Áp dụng thuế suất 15% đối với phần thu nhập của doanh nghiệp trồng trọt, chăn nuôi, chế biến trong lĩnh vực nông nghiệp và thủy sản không thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc địa bàn có điều kiện kinh tế -  xã hội đặc biệt khó khăn (nội dung thể hiện tại khoản 7 Điều 1 Luật số 71/2014/QH13).

1.2. Về chính sách ưu đãi đối với công nghiệp hỗ trợ (CNHT)

Trước thời điểm 01/01/2015, Luật thuế TNDN chủ yếu quy định ưu đãi đối với các dự án đầu tư mới vào ngành công nghệ cao, ứng dụng công nghệ cao, ngành sản xuất sản phẩm phần mềm, sản xuất vật liệu composit, sản xuất năng lượng sạch, phát triển công nghệ sinh học; bảo vệ môi trường.

Với xu hướng phát triển hiện nay, ngành CNHT đang là một trong những mũi nhọn trong việc phát triển kinh tế đất nước. Việc phát triển ngành CNHT là giải pháp quan trọng, giúp các ngành sản xuất trong nước chủ động được nguồn nguyên vật liệu, phụ tùng, linh kiện, phụ kiện đầu vào, chủ động lựa chọn được nhà cung cấp, giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành, tăng năng lực cạnh tranh, nhất là tránh được sự lệ thuộc vào nguồn cung nước ngoài là điều kiện quan trọng để hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam trụ vững và phát triển trong hội nhập kinh tế quốc tế; đủ điều kiện để hưởng các ưu đãi về thuế quan khi các hiệp định tự do thương mại đã ký kết và có hiệu lực.

Để khuyến khích phát triển những lĩnh vực trọng tâm của ngành CNHT và đưa CNHT trở thành trụ cột thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, góp phần thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước, Luật số 71/2014/QH13 đã bổ sung ưu đãi thuế TNDN đối với ngành CNHT: Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới sản xuất sản phẩm thuộc Danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển được áp dụng thuế suất 10% trong 15 năm, miễn thuế trong 04 năm và được giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo; trường hợp đầu tư mở rộng sản xuất sản phẩm thuộc Danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển quy định tại khoản này nếu đáp ứng một trong ba tiêu chí về đầu tư mở rộng quy định tại Luật thuế TNDN số 32/2013/QH13 thì được hưởng ưu đãi thuế (cả thuế suất và thời gian miễn, giảm) theo dự án đang hoạt động cho thời gian còn lại (nếu có).

Đồng thời, để chính sách ưu đãi thuế khuyến khích đúng các sản phẩm CNHT cần ưu tiên sản xuất, qua đó phát huy lợi thế cạnh tranh, khả năng sản xuất trong nước và tiềm năng xuất khẩu, khả năng tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu hay tham gia chuỗi sản xuất cung ứng sản phẩm, thiết bị cho các công ty đa quốc gia, Luật số 71/2014/QH13 đã bổ sung các tiêu chí, nguyên tắc xác định sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển được ưu đãi thuế để áp dụng cho những dự án đầu tư sản xuất sản phẩm CNHT, cụ thể:

- Sản phẩm CNHT cho công nghệ cao theo quy định của Luật công nghệ cao;

- Sản phẩm CNHT cho sản xuất sản phẩm các ngành: dệt – may, da – giầy; điện tử - tin học; lắp ráp ô tô; cơ khí chế tạo mà các sản phẩm này tính đến ngày 01/01/2015 trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng phải đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật của Liên minh Châu Âu (EU) hoặc tương đương (nội dung thể hiện tại khoản 5 Điều 1 Luật số 71/2014/QH13).

1.3. Bổ sung đối tượng được hưởng ưu đãi thuế TNDN ở mức cao nhất đối với dự án sản xuất có quy mô lớn

Luật thuế TNDN số 32/2013/QH13 đã bổ sung quy định ưu đãi đối với thu nhập có được từ thực hiện các dự án đầu tư mới thuộc lĩnh vực ưu đãi và đối với thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới trong lĩnh vực sản xuất có quy mô vốn đầu tư tối thiểu 6 nghìn tỷ đồng (trừ dự án sản xuất mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), dự án khai thác khoáng sản). Tuy nhiên, các dự án này để được hưởng ưu đãi thuế TNDN thì cần phải đáp ứng các tiêu chí như giải ngân không quá 3 năm kể từ khi được cấp phép đầu tư và có tổng doanh thu tối thiểu đạt 10 nghìn tỷ đồng/năm chậm nhất sau 3 năm kể từ năm có doanh thu hoặc giải ngân không quá 3 năm kể từ khi được cấp phép đầu tư và sử dụng trên 3.000 lao động chậm nhất sau 3 năm kể từ năm có doanh thu.

Đối với các dự án có quy mô vốn lớn (tối thiểu 12 tỷ đồng), để được hưởng ưu đãi thuế TNDN thì phải đáp ứng cả điều kiện công nghệ cao, các tiêu chí theo quy định. Tuy nhiên, việc xác định ưu đãi theo quy định trên đối với các dự án lớn, có tầm ảnh hưởng đến nên kinh tế  là chưa phù hợp với thực tế vì tiêu chí xác định doanh nghiệp công nghệ cao còn phức tạp và còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Đồng thời, trong bối cảnh có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài giữa các nước trong khu vực như Inđônexia, Ấn Độ, Thái Lan, Myanmar ... Do đó, đthu hút các dự án đầu tư có quy mô vốn lớn, tác động sâu, rộng đến kinh tế - xã hội của địa phương hoặc vùng kinh tế, Luật số 71/2014/QH13 đã bổ sung quy định ưu đãi thuế TNDN ở mức cao nhất (thuế suất 10% trong 15 năm, miễn 4 năm giảm 9 năm tiếp theo) đối với thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư trong lĩnh vực sản xuất, trừ dự án sản xuất mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và dự án khai thác khoáng sản có quy mô vốn đầu từ tối thiểu 12 nghìn tỷ đồng, sử dụng công nghệ cao phải được thẩm định theo quy định của Luật công nghệ cao, Luật khoa học và công nghệ, thực hiện giải ngân tổng vốn đầu tư dăng ký không quá 5 năm kể từ ngày được cấp giấy phép đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư (nội dung thể hiện tại khoản 5 Điều 1 Luật số 71/2014/QH13).

1.4. Bãi bỏ quy định khống chế đối với chi phí quảng cáo, khuyến mại

Khoản 5 Điều 1 Luật số 32/2013/QH13 quy định không tính vào chi phí được trừ đối với: Phần chi quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại, hoa hồng môi giới, tiếp tân, khánh tiết, hội nghị, hỗ trợ tiếp thị, hỗ trợ chi phí liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh vượt quá 15% tổng số chi được trừ.

Trong bối cảnh kinh tế ngày càng phải cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải tăng cường quảng bá, giới thiệu sản phẩm để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, chiếm lĩnh thị trường. Việc thực hiện khống chế chi phí quảng cáo đã hạn chế doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp có quy mô kinh doanh vừa và nhỏ trong việc phát triển thị trường; các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp đều có kiến nghị xem xét bỏ tỷ lệ khống chế này.

Để phù hợp với thực tiễn, phản ánh đúng bản chất của khoản chi của doanh nghiệp, Luật số 71/2014/QH13 đã bỏ quy định khống chế khoản chi quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại, hoa hồng môi giới, tiếp tân, khánh tiết, hội nghị, hỗ trợ tiếp thị, hỗ trợ chi phí liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh. Theo đó, doanh nghiệp thực hiện chi quảng cáo, khuyến mại nếu có đủ hóa đơn, chứng từ theo quy định thì được tính trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN (nội dung thể hiện tại khoản 4 Điều 1 số Luật 71/2014/QH13).

1.5. Bổ sung nguyên tắc xác định thuế TNDN đối với trường hợp doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài

Luật thuế TNDNcác văn bản hướng dẫn thi hành đã có quy định doanh nghiệp đã nộp thuế thu nhập đối với thu nhập phát sinh ở nước ngoài thì khi xác định số thuế phải nộp tại Việt Nam được trừ số thuế thu nhập đã nộp ở nước ngoài; trường hợp Hiệp định tránh đánh thuế trùng mà Việt Nam đã ký với nước có quy định khác thì thực hiện theo Hiệp định; trường hợp số thuế TNDN đã nộp ở nước ngoài thấp hơn số thuế TNDN phải nộp tính theo Luật thuế TNDN ở Việt Nam thì doanh nghiệp phải nộp ngân sách bổ sung phần chênh lệch.

Tuy nhiên, phần lớn các quốc gia và vùng lãnh thổ cũng như các lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam có thuế suất thuế TNDN lớn hơn 22%. Nếu thực hiện theo tinh thần Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần thì số thuế TNDN nộp cho nhà nước Việt Nam chỉ thực hiện đánh trên số phần trăm chênh lệch giữa thuế suất thuế TNDN của Việt Nam so với các nước có mức thuế suất thấp hơn (ví dụ Singapore 18%, Lào quy định lĩnh vực xăng dầu áp dụng thuế suất 20%...).

 Vì vậy, để khuyến khích hợp lý doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài chuyển thu nhập về Việt Nam, Luật số 71/2014/QH14 đã bổ sung quy định đối với các nước đã ký Hiệp định tránh đánh thuế hai lần thì thực hiện theo quy định của Hiệp định; đối với các nước chưa ký Hiệp định tránh đánh thuế hai lần thì trường hợp thuế thu nhập doanh nghiệp ở các nước mà doanh nghiệp đầu tư chuyển về có mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn thì thu phần chênh lệch so với số thuế thu nhập doanh nghiệp tính theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam; đối với các nước có thuế suất bằng hoặc cao hơn thì không thu thuế thu nhập doanh nghiệp (nội dung thể hiện tại khoản 1 Điều 1 Luật số 71/2014/QH13).

1.6. Bổ sung quy định nguyên tắc áp dụng ưu đãi khi pháp luật về thuế TNDN có sự thay đổi

Để đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế, những quy định về ưu đãi thuế TNDN đối với địa bàn đầu tư, đối với lĩnh vực đầu tư thời gian qua luôn sửa đổi, bổ sung: Luật thuế TNDN năm 2003 (thực hiện từ 2004 - 2008), Luật thuế TNDN năm 2008 (thực hiện từ 2009 - 2013); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNDN (thực hiện từ ngày 01/01/2014). Việc áp dụng Luật tại các thời điểm chuyển tiếp còn phức tạp, gây không ít khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp và cả cơ quan thuế, cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư.

Để khắc phục các bất cập hiện hành, đảm bảo tính nhất quán của chính sách thuế TNDN và đồng bộ với những quy định của Luật Đầu tư, Chính phủ trình Quốc hội bổ sung quy định có tính chất nguyên tắc áp dụng ưu đãi thuế TNDN khi sửa đổi, bổ sung ưu đãi thuế TNDN. Theo đó trình Quốc hội cho thay đoạn đầu khoản 3 Điều 2 Luật thuế TNDN số 32/2013/QH13 như sau: Doanh nghiệp có dự án đầu tư được hưởng ưu đãi thuế TNDN theo quy định của pháp luật thuế TNDN tại thời điểm cấp phép hoặc cấp giấy chứng nhận đầu tư. Trường hợp pháp luật thuế TNDN có thay đổi mà doanh nghiệp đáp ứng điều kiện ưu đãi thuế theo quy định của pháp luật mới được sửa đổi, bổ sung thì doanh nghiệp được quyền lựa chọn hưởng ưu đãi về thuế suất và về thời gian miễn thuế, giảm thuế theo quy định của pháp luật tại thời điểm cấp phép hoặc theo quy định của pháp luật mới được sửa đổi, bổ sung cho thời gian còn lại kể từ khi pháp luật thuế TNDN sửa đổi, bổ sung có hiệu lực thi hành (nội dung thể hiện tại khoản 9  Điều 1 Luật số 71/2014/QH13).

2. Về thuế thu nhập cá nhân (TNCN)

2.1. Về thuế đối với cá nhân kinh doanh

Theo quy định pháp luật hiện hành thì hộ, cá nhân kinh doanh ngoài việc phải chịu thuế gián thu còn phải chịu thuế TNCN. Thuế TNCN đối với hộ, cá nhân kinh doanh đang áp dụng quy trình tính thuế phức tạp như: trường hợp cá nhân kinh doanh chưa thực hiện được chế độ kế toán, không xác định được thu nhập chịu thuế thì cơ quan thuế ấn định thu nhập. Sau đó lại xác định thu nhập tính thuế trên cơ sở tính giảm trừ gia cảnh để áp dụng biểu thuế luỹ tiến, cuối năm phải quyết toán thuế (theo thẩm quyền, Chính phủ đã ban hành một số quy định bỏ phải quyết toán thuế đối với trường hợp cá nhân hoạt động đại lý bảo hiểm, đại lý xổ số, bán hàng đa cấp).

Do đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế và cải cách thủ tục hành chính, Luật số 71/2014/QH14 đã sửa đổi quy định cá nhân kinh doanh nộp thuế TNCN theo tỷ lệ trên doanh thu đối với từng lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, kinh doanh và quy định cá nhân kinh doanh có doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở xuống không thuộc đối tượng nộp thuế TNCN. Theo đó, thuế suất từng ngành nghề, lĩnh vực như sau:

(i) Thuế suất 0,5% đối với hoạt động phân phối, cung cấp hàng hóa;

(ii) Thuế suất 2% đối với dịch vụ, xây dựng không bao thầu nguyên vật liệu. Riêng hoạt động cho thuê tài sản, đại lý bảo hiểm, đại lý xổ số, đại lý bán hàng đa cấp, thuế suất là 5%;

(iii) Thuế suất 1,5% đối với sản xuất vận tải, dịch vụ có gắn với hàng hóa, xây dựng có bao thầu nguyên vật liệu;

(iv) Thuế suất 1% đối với hoạt động kinh doanh khác

(Các nội dung này thể hiện tại khoản 1 và khoản 4 Điều 2 Luật số 71/2014/QH13).

Ngoài ra, để đảm bảo việc quy định thống nhất và nhất quán, Luật số 71/2014/QH13 bãi bỏ các quy định liên quan đến việc xác định thuế đối với cá nhan kinh doanh tại khoản 1 Điều 19, khoản 1 Điều 20 và khoản 1 Điều 21 Luật thuế TNCN số 04/2007/QH 12 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật số 26/2012/QH13 (nội dung thể hiện tại khoản 4 Điều 6 Luật số 71/2014/QH13).

2.2. Bổ sung thu nhập thuộc diễn miễn thuế TNCN đối với chủ tầu cá, cá nhân có tầu thực hiện cung cấp hàng hóa, dịch vụ trực tiếp phục vụ hoạt động khai thác, đánh bắt thủy sản xa bờ và thu nhập của thuyền viên làm trên tàu

Luật thuế TNCN hiện hành quy định miễn thuế đối với thu nhập của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối, nuôi trồng, đánh bắt thủy sản chưa qua chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường. Như vậy, đối với các chủ tàu trực tiếp khai thác thủy sản xa bờ, Luật thuế TNCN đã quy định miễn thuế TNCN. Tuy nhiên, tàu dịch vụ hậu cần nghề cá cung cấp nước ngọt, xăng dầu ... cho tàu đánh cá đang được khuyến khích phát triển nhưng chưa có quy định miễn thuế TNCN đối với chủ tàu này.

Theo đó, để tạo điều kiện khuyến khích hoạt động này, Luật số 71/2014/QH13 đã bổ sung quy định miễn thuế TNCN đối với thu nhập của cá nhân là chủ tàu, cá nhân có quyền sử dụng tàu và cá nhân làm việc trên tàu từ hoạt động cung cấp hàng hóa, dịch vụ trực tiếp phục vụ hoạt động khai thác, đánh bắt thủy sản xa bờ (nội dung thể hiện tại khoản 3 Điều 2 Luật số 71/2014/QH13).

2.3. Bổ sung quy định miễn thuế đối với thuyền viên là người Việt Nam làm việc tại các hãng tàu nước ngoài hoặc các hãng tàu Việt Nam vận tải quốc tế

Xuất phát từ tình hình thực tiễn, đối với cá nhân là thuyền viên làm việc cho hãng tàu nước ngoài, cùng mức lương được chủ tàu trả thì thu nhập thực nhận của thuyền viên người Việt Nam thường thấp hơn so với thuyền viên nước ngoài do chịu thuế TNCN hoặc do chủ tàu phải trả thuế TNCN cho thuyền viên Việt Nam. Trong khi nhiều nước có quy định không thu thuế TNCN hoặc thu thấp hơn đối với thu nhập của thuyền viên dẫn đến các chủ tàu không mặn mà với việc tuyển dụng thuyền viên là người Việt Nam.

Để tháo gỡ khó khăn và tạo cơ hội cho lao động Việt Nam là thuyền viên làm việc cho các hãng tàu vận tải quốc tế, từ đó góp phần phát triển dịch vụ xuất khẩu, lao động, đảm bảo sự công bằng với người lao động là thuyền viên làm thuê cho các hãng tàu nước ngoài hoặc các hãng tàu Việt Nam vận tải trên các tuyến quốc tế. Đồng thời, để khuyến khích chủ tàu là cá nhân cung cấp các dịch vụ hậu cần phục vụ cho hoạt động khai thác thủy sản đảm bảo các điều kiện cần thiết cho ngư dân bám biển góp phần đảm bảo an ninh trên biển, bảo vệ chủ quyền biển đảo, Luật số 71/2014/QH13 đã bổ sung quy định miễn thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công của thuyền viên là người Việt Nam nhận được do làm thuê cho các hãng tàu nước ngoài hoặc các hãng tàu Việt Nam vận tải quốc tế và thu nhập của cá nhân là chủ tàu từ hoạt động cung cấp hàng hóa, dịch vụ trực tiếp phục vụ hoạt động khai thác thủy sản xa bờ (nội dung thể hiện tại khoản 3 Điều 2 Luật số 71/2014/QH13).

2.4. Về thuế đối với chuyển nhượng chứng khoán của cá nhân

Luật thuế TNCN và các văn bản hướng dẫn quy định thuế TNCN đối với hoạt động chuyển nhượng vốn, được xác định trên cơ sở giá bán trừ đi giá mua và các khoản chi phí hợp lý liên quan. Thuế suất thuế TNCN là 20%

Riêng đối với hoạt động chuyển nhượng chứng khoán, Luật thuế TNCN quy định 2 phương pháp thu thuế theo thuế suất 20% trên thu nhập năm (giá bán - giá mua và các chi phí liên quan), nếu không xác định được giá vốn, các chi phí liên quan và có chứng từ chứng minh thì nộp thuế 0,1% trên giá bán từng lần. Trường hợp cá nhân áp dụng kỳ tính thuế theo năm thì mỗi lần chuyển nhượng cá nhân tạm nộp thuế TNCN 0,1% trên giá bán chứng khoán từng lần, cuối năm quyết toán được trừ số thuế đã tạm nộp trong năm.

Tuy nhiên, xuất phát từ tình hình thực tiễn, việc xác định các khoản chi phí hợp lý có liên quan gây nhiều khó khăn cho người nộp thuế. Theo đó, để minh bạch về chính sách, tránh vướng mắc trong thực hiện cải cách về thủ tục hành chính, Luật số 71/2014/QH13 đã sửa đổi, bổ sung quy định về cách tính thuế đối với hoạt động chuyển nhượng chứng khoán. Theo đó, thu nhập chịu thuế từ hoạt động chuyển nhượng chứng khoán được xác định là giá chuyển nhượng từng lần. Thuế suất là 0,1% (nội dung thể hiện tại khoản 5 Điều 2 Luật số 71/2014/QH13).

2.5. Về thuế đối với chuyển nhượng bất động sản của cá nhân

Luật thuế TNCN và các văn bản hướng dẫn quy định 2 phương pháp thu thuế theo thuế suất 25% trên thu nhập (giá bán trừ giá vốn và các chi phí liên quan) và nộp thuế 2% trên giá bán nếu không xác định được giá vốn, các chi phí liên quan và có chứng từ chứng minh.

Tuy nhiên, trên thực tế việc xác định được các chi phí liên quan và hồ sơ chứng từ chứng minh được các chi phí liên quan gây rất nhiều khó khăn cho người nộp thuế. Theo đó, để minh bạch về chính sách, tránh vướng mắc trong thực hiện cải cách về thủ tục hành chính, Luật số 71/2014/QH13 đã sửa đổi, bổ sung quy định về xác định thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng bất động sản. Thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng bất động sản được xác định là giá chuyển nhượng từng lần và thuế suất thuế TNCN là 2% (nội dung thể hiện tại khoản 6 Điều 2 Luật số 71/2014/QH13).

2.6. Bãi bỏ thuế TNCN đối với thu nhập từ trúng thưởng trong casino

Theo quy định của Luật thuế TNCN hiện hành thì thu nhập từ trúng thưởng hoặc hình thức cá cược trong casino là thu nhập chịu thuế TNCN với thuế suất 10% trên phần thu nhập trúng thưởng vượt trên 10 triệu đồng. Trong thực tế không thể xác định được mức thu nhập từ trúng thưởng của người chơi. Để phản ánh đúng bản chất của thuế thu nhập, phù hợp với thông lệ quốc tế, Luật số 71/2014/QH13 đã bỏ quy định thu thuế TNCN đối với cá nhân trúng thưởng trong casino (nội dung thể hiện tại khoản 2 Điều 2 Luật 71/2014/QH13).

3. Về Luật thuế giá trị gia tăng (GTGT)

Luật thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn quy định thuế suất 5% đối với các đối tượng phân bón, máy móc, thiết bị chuyên dùng cho sản xuất nông nghiệp; tàu đánh bắt xa bờ; thức ăn gia súc, gia cầm và thức ăn cho vật nuôi khác.

Trên thực tế hiện nay, việc áp dụng quy đình này đã trở thành một rào cản đối với sản xuất nông nghiệp trong nước trước sự cạnh tranh của các sản phẩm từ nước ngoài. Đồng thời, theo kinh nghiệm quốc tế cho thấy nhiều nước trên thế giới có quy định các sản phẩm thiết yếu cho ngành sản xuất nông nghiệp như thức ăn chăn nuôi, phân bón, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT. Nhiều nước áp dụng chính sách thuế GTGT ưu đãi đối với nhóm các mặt hàng thiết yếu này. Vì vậy, đề tháo gỡ khó khăn, giảm giá thức ăn chăn nuôi qua đó thúc đẩy sự phát triển ngành chăn nuôi, đặc biệt trong yêu cầu hội nhập quốc tế lớn hiện nay, Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung đối tượng không chịu thuế GTGT bao gồm phân bón; máy móc, thiết bị chuyên dùng cho phục vụ sản xuất nông nghiệp; tàu đánh bắt xa bờ; thức ăn gia súc, gia cầm và thức ăn cho vật nuôi khác (nội dung thể hiện tại Điều 3 Luật số 71/2014/QH13).

4.                  Về Luật thuế tài nguyên

Khoản 5 Điều 9 Luật thuế tài nguyên số 45/2009/QH12 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2010) quy định: Miễn thuế tài nguyên đối với nước thiên nhiên dùng cho nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp. Các quy định này trong quá trình thực hiện không phát sinh vướng mắc. Tuy nhiên, trong quan hệ thương mại với nước ngoài đã có tranh chấp về mặt pháp lý liên quan đến các vấn đề chống phá giá, trợ cấp Chính phủ khi thực hiện xuất khẩu các mặt hàng nông nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp ra các nước trên thị trường quốc tế.

Để giải quyết vướng mắc trong quan hệ thương mại với các nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, đồng thời đảm bảo cũng như ổn định đời sống người nông dân, khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, Luật số 71/2014/QH13 quy định không thu thuế tài nguyên đối với nước thiên nhiên dùng cho nông, lâm, ngư, diêm nghiệp (nội dung thể hiện tại Điều 4 Luật 71/2014/QH13).

5. Về Luật Quản lý thuế

5.1. Bỏ bảng kê hóa đơn hàng hóa, dịch vụ trong hồ sơ khai thuế

Để cải cách thủ tục hành chính thuế, tạo thuận lợi cho người nộp thuế và góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, Chính phủ đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và chú trọng đẩy mạnh cải cách những thủ tục hành chính có liên quan đến lĩnh vực thuế, hải quan hướng tới giảm thời gian kê khai, nộp thuế.

Để tiếp tục đơn giản về thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho người nộp thuế, phù hợp thông lệ quốc tế, Luật số 71/2014/QH13 đã bỏ bảng kê hóa đơn hàng hóa dịch vụ bán ra; hóa đơn hàng hóa dịch vụ mua vào; các tài liệu khác có liên quan đến số thuế phải nộp trong Hồ sơ khai thuế theo tháng và hồ sơ khai thuế theo quý. Theo đó, hồ sơ khai thuế đối với loại thuế khai và nộp theo tháng, theo quý chỉ bao gồm tờ khai thuế tháng và tờ khai thuế quý (nội dung thể hiện tại khoản 1 Điều 5 Luật số 71/2014/QH13).

5.2. Về đồng tiền nộp thuế và tỷ giá quy đổi

Luật Quản lý thuế quy định đồng tiền nộp thuế là đồng Việt Nam, trừ trường hợp nộp thuế bằng ngoại tệ theo quy định Chính phủ. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Luật thuế Giá trị gia tăng, Luật thuế Tiêu thụ đặc biệt, Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp, thuế Thu nhập cá nhân đều quy định doanh thu tính thuế, chi phí tính thuế, giá tính thuế, thu nhập chịu thuế, đồng tiền nộp thuế được xác định bằng đồng Việt Nam. Trường hợp bằng ngoại tệ thì phải quy đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm phát sinh.

Thực hiện quy định của Luật thuế, doanh nghiệp luôn phải điều chỉnh sổ sách kế toán theo tỷ giá giao dịch liên ngân hàng, gây khó khăn, phức tạp không cần thiết cho doanh nghiệp trong việc xác định doanh thu, chi phí, giá tính thuế, tăng thời gian kê khai, nộp thuế của doanh nghiệp.

Đề đảm bảo phù hợp với thực tiễn, khắc phục những khó khăn vướng mắc, tạo điều kiện cho người nộp thuế giảm chi phí quản lý không ảnh hưởng tới thu ngân sách nhà nước, Luật số 71/2014/QH13 đã sửa đổi, bổ sung quy định người nộp thuế xác định doanh thu, chi phí, giá tính thuế và các khoản thuế nộp ngân sách nhà nước bằng đồng Việt Nam (trừ trường hợp nộp thuế bằng ngoại tệ theo quy định của Chính phủ); trường hợp phát sinh doanh thu, chi phí, giá tính thuế bằng ngoại tệ hoặc người nộp thuế có nghĩa vụ phải nộp bằng ngoại tệ nhưng được cơ quan có thẩm quyền cho phép nộp thuế bằng đồng Việt Nam thì phải quy đổi ngoại tệ ra đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch thực tế tại thời điểm phát sinh (nội dung thể hiện tại khoản 2  Điều 5 Luật số 71/2014/QH13).

Theo đó, để đảm bảo việc thực hiện thống nhất quy định này, Luật số 71/2014/QH13 bãi bỏ các quy định liên quan đến xác định tỷ giá khi xác định doanh thu, chi phí, giá tính thuế, thu nhập tính thuế, thu nhập chịu thuế và thuế nộp ngân sách nhà nước tại Điều 8 và khoản 3 Điều 9 Luật thuế TNDN số 14/2008/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật 32/2013/QH13; khoản 1 Điều 6 Luật thuế TNCN số 04/2007/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 26/2012/QH13; khoản 3 Điều 7 Luật thuế GTGT số 13/2008/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật số 31/2013/QH13; Điều 6 Luât thuế tiêu thụ đặc biệt số 27/2008/QH12; khoản 3 Điều 9 và Điều 14 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11; khoản 4 Điều 86 Luật Hải quan số 54/2014/QH13 (nội dung thể hiện tại khoản 2 Điều 6 Luật số 71/2014/QH13).

5.3. Giảm mức tính tiền chậm nộp

Luật Quản lý thuế quy định hai mức phạt đối với người nộp thuế chậm nộp tiền thuế so với thời hạn quy định. Theo đó, tiền chậm nộp theo mức lũy tiến 0,05%/ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp đối với số ngày chậm nộp không quá 90 ngày; 0,07%/ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp đối với số ngày chậm nộp vượt quá thời hạn 90 ngày.

Xuất phát từ tình hình thực tế, doanh nghiệp Việt Nam đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc sản xuất kinh doanh, cũng như việc bố trí nguồn vốn để đảm bảo các nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước. Theo đó, để giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp, Luật số 71/2014/QH13 đưa mức tính tiền chậm nộp về 01 mức là 0,05% /ngày tính trên số tiền chậm nộp. Đồng thời, Luật bổ sung quy định đối với trường hợp người nộp thuế cung ứng dịch vụ hàng hóa được thanh toán bằng nguồn ngân sách nhà nước nhưng chưa được thanh toán nên không nộp kịp thời các khoản thuế dẫn đến nợ thuế thì không phải nộp tiền chậm nộp tính trên số tiền thuế còn nợ  nhưng không vượt quá số tiền ngân sách nhà nước chưa thanh toán phát sinh trong thời gian ngân sách nhà nước chưa thanh toán (nội dung thể hiện tại khoản 4 Điều 5 Luật số 71/2014/QH13).

Ngoài ra, đề đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất các quy định pháp luật, Luật số 71/2014/QH13 đã bãi bỏ quy định về việc gia hạn nộp thuế đối với trường hợp người nộp thuế chưa được thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản ghi trong dự toán thu ngân sách nhà nước (nội dung thể hiện tại khoản 3 Điều 6 Luật số 71/2014/QH13).

5.4. Bổ sung nguyên tắc về việc cung cấp chứng từ trong hồ sơ khai, nộp thuế, hồ sơ hoàn thuế và các hồ sơ thuế khác

Để giảm bớt thủ tục hành chính và tạo điều kiện tối đa cho người nộp thuế trong việc nộp chứng từ, tài liệu trong các khâu kê khai, nộp thuế, hoàn thuế, Luật số 71/2014/QH13 đã bổ sung nguyên tắc người nộp thuế không phải nộp các chứng từ trong hồ sơ khai, nộp thuế, hồ sơ hoàn thuế và các hồ sơ thuế khác mà cơ quan quản lý nhà nước đã có (nội dung thể hiện tại khoản 3 Điều 5 Luật số 71/2014/QH13).

IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1. Xây dựng văn bản hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều tại các Luật về thuế

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/2015/NĐ-CP ngày 12/02/2015 quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế và sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về thuế với các nội dung quy định chi tiết sau:

(i) Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế TNDN về thu nhập chịu thuế và phương pháp tính thuế TNDN đối với thu nhập từ đầu tư ở nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam; về thu nhập miễn thuế; về chi phí được trừ, không được trừ; về ưu đãi thuế TNDN; về chuyển tiếp ưu đãi thuế.

(ii) Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 65/2013/NĐ-CP ngày 27/6/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật thuế TNCN và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNCN về thuế đối với cá nhân kinh doanh; về thuế TNCN đối với các khoản đóng góp bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm không bắt buộc khác, khoản đóng góp quỹ hưu trí tự nguyện; về khoản trợ cấp chuyển vùng một lần đối với người Việt Nam cư trú dài hạn ở nước ngoài về Việt Nam làm việc; về thuế đối với thu nhập từ đầu tư vốn của chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên; về thuế đối với hình thức trúng thưởng trong casino; về thu nhập được miễn thuế; về thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán; về thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản; về xác định thu nhập tính thuế đối với thu nhận từ nhận thừa kế, quà tặng là tài sản nhập khẩu và về khấu trừ thuế đối với cá nhân cho doanh nghiệp thuê tài sản.

(iii) Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế GTGT về đối tượng không chịu thuế GTGT; về việc xác định giá đất được trừ khi tính thuế GTGT đối với chuyển nhượng bất động sản; về trường hợp không áp dụng thuế suất 0%; về khấu trừ thuế GTGT đầu vào và về hoàn thuế GTGT.

(iv) Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 83/2013/NĐ-CP ngày 22/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế về giảm thủ tục hành chính trong hồ sơ khai thuế của người nộp thuế; về hồ sơ khai thuế; về nộp thuế đối với khoản phí bảo vệ môi trường của cá nhân kinh doanh; bổ sung quy định về tỷ giá tính thuế khi chuyển đổi đồng tiền nộp thuế từ ngoại tệ sang đồng Việt Nam; xử lý đối với việc chậm nộp tiền thuế; về kéo dài gia hạn nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu; về xác nhận hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế; về giải quyết hồ sơ hoàn thuế và về khai thuế và nộp thuế điện tử.

2. Tuyên truyền, phổ biến về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều tại các Luật về thuế

- Thực hiện Kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2015 của Bộ Tài chính ban hành kèm theo Quyết định số 3311/QĐ-BTC ngày 23/12/2014, trong năm 2015, Bộ Tài chính sẽ tổ chức giới thiệu, tập huấn, phổ biến Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế thông qua các cơ quan báo chí trong và ngoài ngành Tài chính; nhất là với các doanh nghiệp và các tổ chức khác là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của Luật.

- Thực hiện các chuyên mục, chương trình, tin, bài phổ biến Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành trên website, báo chí, truyền hình trung ương và địa phương./.

ĐƠN VỊ HỖ TRỢ