|
KẾ TOÁN - THUẾ - DOANH NGHIỆP - LAO ĐỘNG |
|
CHUẨN
MỰC SỐ 18 CÁC
KHOẢN DỰ PHÒNG, TÀI SẢN VÀ NỢ TIỀM TÀNG 01. Mục đích của chuẩn mực này là quy định và hướng dẫn các nguyên tắc,
phương pháp kế toán các khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng, gồm: Nguyên tắc
ghi nhận; xác định giá trị; các khoản bồi hoàn; thay đổi các khoản dự phòng; sử
dụng các khoản dự phòng; áp dụng nguyên tắc ghi nhận và xác định giá trị các
khoản dự phòng làm cơ sở lập và trình bày báo cáo tài
chính. 02. Chuẩn mực này áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp để kế toán các
khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng, ngoại
trừ: a) Các khoản mục phát sinh từ các hợp đồng thông thường, không kể các hợp
đồng có rủi ro lớn; b) Những khoản mục đã quy định trong các chuẩn mực kế toán
khác. 03. Chuẩn mực này không áp dụng cho các công cụ tài chính (bao gồm cả
điều khoản bảo lãnh). Các công cụ tài chính áp dụng theo quy định của chuẩn mực
kế toán về công cụ tài chính. 04. Khi có một chuẩn mực kế
toán khác đề cập đến một loại dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng cụ thể thì doanh
nghiệp phải áp dụng chuẩn mực đó. Ví dụ Chuẩn mực kế toán số 11 “Hợp nhất kinh
doanh” đề cập đến phương pháp ghi nhận của người mua đối với các khoản nợ tiềm
tàng phát sinh khi hợp nhất. Tương tự, cũng có các loại dự phòng được đề cập
trong các chuẩn mực khác, như: - Chuẩn mực kế toán số 15
“Hợp đồng xây dựng”; - Chuẩn mực kế toán số 17
“Thuế thu nhập doanh nghiệp”; - Chuẩn mực kế toán số 06
“Thuê tài sản”. Trừ trường hợp tài sản thuê hoạt động có rủi ro lớn thì áp dụng
chuẩn mực này. 05. Một số khoản được coi
là khoản dự phòng liên quan đến nguyên tắc ghi nhận doanh thu (Ví dụ: Khoản phí
bảo hành) thì áp dụng nguyên tắc ghi nhận doanh thu quy định tại Chuẩn mực kế
toán số 14 “Doanh thu và thu nhập khác”. 06. Chuẩn mực này áp dụng
cho các khoản dự phòng đối với hoạt động tái cơ cấu doanh nghiệp (kể cả trường
hợp ngừng hoạt động). Nếu việc tái cơ cấu phù hợp các định nghĩa về ngừng hoạt
động thì phải trình bày bổ sung theo quy định của các chuẩn mực kế toán hiện
hành. 07. Các thuật ngữ trong
chuẩn mực này được hiểu như sau: Một khoản dự phòng: Là khoản nợ phải trả không chắc chắn về giá trị hoặc thời
gian. Một khoản nợ phải trả: Là nghĩa vụ nợ hiện tại của doanh nghiệp phát sinh từ các
sự kiện đã qua và việc thanh toán khoản phải trả này dẫn đến sự giảm sút về lợi
ích kinh tế của doanh nghiệp. Sự kiện có tính chất bắt buộc: Là sự kiện làm nảy sinh một nghĩa vụ pháp lý hoặc nghĩa vụ
liên đới khiến cho doanh nghiệp không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc thực
hiện nghĩa vụ đó. Nghĩa vụ pháp lý: Là nghĩa vụ phát sinh từ: a) Một hợp đồng; b) Một văn bản pháp luật
hiện hành. Nghĩa vụ liên đới: Là nghĩa vụ phát sinh từ các hoạt động của một doanh nghiệp
khi thông qua các chính sách đã ban hành hoặc hồ sơ, tài liệu hiện tại có liên
quan để chứng minh cho các đối tác khác biết rằng doanh nghiệp sẽ chấp nhận và
thực hiện những nghĩa vụ cụ thể. Nợ tiềm tàng: Là: a) Nghĩa vụ nợ có khả năng
phát sinh từ các sự kiện đã xảy ra và sự tồn tại của nghĩa vụ nợ này sẽ chỉ được
xác nhận bởi khả năng hay xảy ra hoặc không hay xảy ra của một hoặc nhiều sự
kiện không chắc chắn trong tương lai mà doanh nghiệp không kiểm soát được;
hoặc b) Nghĩa vụ nợ hiện tại
phát sinh từ các sự kiện đã xảy ra nhưng chưa được ghi nhận vì: (i) Không chắc chắn có sự
giảm sút về lợi ích kinh tế do việc phải thanh toán nghĩa vụ nợ; hoặc (ii) Giá trị của nghĩa vụ
nợ đó không được xác định một cách đáng tin cậy. Tài sản tiềm tàng: Là tài sản có khả năng phát sinh từ các sự kiện đã xảy ra
và sự tồn tại của tài sản này chỉ được xác nhận bởi khả năng hay xảy ra hoặc
không hay xảy ra của một hoặc nhiều sự kiện không chắc chắn trong tương lai mà
doanh nghiệp không kiểm soát được. Hợp đồng có rủi ro lớn: Là hợp đồng trong đó có những chi phí không thể tránh được
buộc phải trả cho các nghĩa vụ liên quan đến hợp đồng vượt quá lợi ích kinh tế
dự tính thu được từ hợp đồng đó. Tái cơ cấu doanh nghiệp: Là một chương trình do Ban Giám đốc lập kế hoạch, kiểm soát
và có những thay đổi quan trọng về: a) Phạm vi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp; hoặc b) Phương thức hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Các khoản dự phòng và các khoản nợ phải trả 08. Các khoản dự phòng có
thể phân biệt được với các khoản nợ phải trả như: Các khoản nợ phải trả người
bán, phải trả tiền vay,... là các khoản nợ phải trả được xác định gần như chắc
chắn về giá trị và thời gian, còn các khoản dự phòng là các khoản nợ phải trả
chưa chắc chắn về giá trị hoặc thời gian. Mối quan hệ giữa các khoản dự phòng và nợ tiềm tàng 09. Tất cả các khoản dự
phòng đều là nợ tiềm tàng vì chúng không được xác định một cách chắc chắn về giá
trị hoặc thời gian. Tuy nhiên, trong phạm vi chuẩn mực này thuật ngữ “tiềm tàng”
được áp dụng cho các khoản nợ và những tài sản không được ghi nhận vì chúng chỉ
được xác định cụ thể khi khả năng xảy ra hoặc không xảy ra của một hoặc nhiều sự
kiện không chắc chắn trong tương lai mà doanh nghiệp không kiểm soát được. Hơn
nữa, thuật ngữ “nợ tiềm tàng” được áp dụng cho các khoản nợ không thoả mãn điều
kiện để ghi nhận là một khoản nợ phải trả thông thường. 10. Chuẩn mực này phân biệt
rõ các khoản dự phòng với các khoản nợ tiềm tàng, như sau: a) Các khoản dự phòng là
các khoản đã được ghi nhận là các khoản nợ phải trả (giả định đưa ra một ước
tính đáng tin cậy) vì nó là các nghĩa vụ về nợ phải trả hiện tại và chắc chắn sẽ
làm giảm sút các lợi ích kinh tế để thanh toán các nghĩa vụ về khoản nợ phải trả
đó; và b) Các khoản nợ tiềm
tàng là các khoản không được ghi nhận là các khoản nợ phải trả thông
thường, vì: Các khoản nợ phải trả thường xảy ra, còn khoản nợ tiềm tàng thì chưa
chắc chắn xảy ra. Các khoản dự phòng 11. Một khoản dự phòng chỉ
được ghi nhận khi thoả mãn các điều kiện sau: a) Doanh nghiệp có nghĩa vụ
nợ hiện tại (nghĩa vụ pháp lý hoặc nghĩa vụ liên đới) do kết quả từ một sự kiện
đã xảy ra; b) Sự giảm sút về những lợi
ích kinh tế có thể xảy ra dẫn đến việc yêu cầu phải thanh toán nghĩa vụ nợ;
và c) Đưa ra được một ước tính
đáng tin cậy về giá trị của nghĩa vụ nợ đó. Nghĩa vụ nợ 12. Rất ít trường hợp không
thể chắc chắn được rằng liệu doanh nghiệp có nghĩa vụ nợ hay không. Trong trường
hợp này một sự kiện đã xảy ra được xem là phát sinh ra nghĩa vụ nợ khi xem xét
tất cả các chứng cứ đã có chắc chắn xác định được nghĩa vụ nợ tại ngày kết thúc
kỳ kế toán năm. 13. Trong hầu hết các
trường hợp đều có thể xác định rõ được rằng một sự kiện đã xảy ra có phát sinh
một nghĩa vụ nợ hay không. Một số ít trường hợp không chắc chắn được rằng một số
sự kiện xảy ra có dẫn đến một nghĩa vụ nợ hay không. Ví dụ: Trong một vụ xét xử,
có thể gây ra tranh luận để xác định rằng những sự kiện cụ thể đã xảy ra hay
chưa và có dẫn đến một nghĩa vụ nợ hay không. Trường hợp như thế, doanh nghiệp
phải xác định xem liệu có tồn tại nghĩa vụ nợ tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm
hay không thông qua việc xem xét tất cả các chứng cứ đã có, bao gồm cả ý kiến
của các chuyên gia. Chứng cứ đưa ra xem xét phải tính đến bất cứ một dấu hiệu bổ
sung nào của các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm. Dựa trên cơ sở
của các dấu hiệu đó: a) Khi chắc chắn xác định
được nghĩa vụ nợ tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm, thì doanh nghiệp phải ghi
nhận một khoản dự phòng (nếu thoả mãn các điều kiện ghi nhận); và b) Khi chắc chắn không có
một nghĩa vụ nợ nào tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm, thì doanh nghiệp phải
trình bày trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính một khoản nợ tiềm tàng, trừ
khi khả năng giảm sút các lợi ích kinh tế rất khó có thể xảy ra (như quy định
tại đoạn 81). Sự kiện đã xảy ra 14. Một sự kiện đã xảy ra
làm phát sinh nghĩa vụ nợ hiện tại được gọi là một sự kiện ràng buộc. Một sự
kiện trở thành sự kiện ràng buộc, nếu doanh nghiệp không có sự lựa chọn nào khác
ngoài việc thanh toán nghĩa vụ nợ gây ra bởi sự kiện đó. Điều này chỉ xảy
ra: a) Khi việc thanh toán
nghĩa vụ nợ này do pháp luật bắt buộc; hoặc b) Khi có nghĩa vụ nợ liên
đới, khi sự kiện này (có thể là một hoạt động của doanh nghiệp) dẫn đến có ước
tính đáng tin cậy để bên thứ ba chắc chắn là doanh nghiệp sẽ thanh toán khoản nợ
phải trả đó. 15. Báo cáo tài chính chỉ
liên quan đến tình trạng tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm kết thúc kỳ
báo cáo và không liên quan đến vấn đề tài chính có thể xảy ra trong tương lai.
Vì vậy, không cần phải ghi nhận bất kỳ một khoản dự phòng nào cho các khoản chi
phí cần thiết cho hoạt động trong tương lai. Các khoản nợ phải trả được ghi nhận
trong Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp là những khoản nợ phải trả đã xác
định tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm. 16. Chỉ có những nghĩa vụ
nợ phát sinh từ các sự kiện đã xảy ra độc lập với các hoạt động trong tương lai
của doanh nghiệp mới được ghi nhận là các khoản dự phòng, ví dụ chi phí phạt
hoặc chi phí xử lý thiệt hại do vi phạm pháp luật về môi trường, đều làm giảm
sút các lợi ích kinh tế và tất yếu sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động trong tương
lai của doanh nghiệp. Tương tự, doanh nghiệp phải ghi nhận một khoản dự phòng
cho những chi phí, như chi phí tháo dỡ trang thiết bị khi di chuyển hoặc tái cơ
cấu doanh nghiệp. Các chi phí phát sinh do áp lực về thương mại hoặc qui định
của pháp luật mà doanh nghiệp dự định phải chi tiêu như trường hợp đặc biệt
trong tương lai thì không được lập dự phòng (Ví dụ: Lắp thêm các thiết bị lọc
khói cho một nhà máy). Các biện pháp dự định thực hiện trong tương lai của doanh
nghiệp có thể tránh được chi phí (Ví dụ: Doanh nghiệp dự định thay đổi phương
thức hoạt động), doanh nghiệp sẽ không phải chịu nghĩa vụ hiện tại cho các khoản
chi phí trong tương lai và cũng không phải ghi nhận bất kỳ một khoản dự phòng
nào. 17. Một khoản nợ phải trả
thường liên quan đến một bên đối tác có quyền lợi đối với khoản nợ đó. Tuy
nhiên, cũng không cần thiết phải xác định rõ bên có quyền lợi đối với khoản nợ
đó, ví dụ khoản nợ đối với cộng đồng. Một khoản nợ luôn gắn với các cam kết với
bên đối tác khác. Một quyết định của Ban Giám đốc không nhất thiết phát sinh
nghĩa vụ nợ liên đới tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm, trừ khi quyết định này đã
được thông báo cụ thể và đầy đủ trước ngày kết thúc kỳ kế toán năm cho những đối
tượng sẽ được hưởng quyền lợi. 18. Một sự kiện không nhất
thiết phát sinh nghĩa vụ nợ ngay lập tức mà có thể sẽ phát sinh sau này do những
thay đổi về pháp luật hoặc do hoạt động của doanh nghiệp dẫn đến nghĩa vụ nợ
liên đới. Ví dụ: Khi xảy ra thiệt hại về môi trường có thể sẽ không phát sinh ra
nghĩa vụ nợ để giải quyết các hậu quả gây ra. Tuy nhiên, nguyên nhân gây ra
thiệt hại sẽ trở thành một sự kiện hiện tại khi có một qui định mới yêu cầu các
thiệt hại hiện tại phải được điều chỉnh hoặc khi doanh nghiệp công khai thừa
nhận nghĩa vụ của mình trong việc xử lý các thiệt hại đó như là nghĩa vụ nợ liên
đới. Sự giảm sút lợi ích kinh tế có thể
xảy ra 19. Điều kiện ghi nhận một
khoản nợ là khoản nợ đó phải là khoản nợ hiện tại và có khả năng làm giảm sút
lợi ích kinh tế do việc thanh toán khoản nợ đó. Theo quy định của chuẩn mực này,
một khoản nợ phải kèm theo sự giảm sút lợi ích kinh tế có khả năng xảy ra hơn là
không xảy ra. Khi không thể xác định được một nghĩa vụ nợ hiện tại, thì doanh
nghiệp phải thuyết minh một khoản nợ tiềm tàng, trừ khi khả năng giảm sút về lợi
ích kinh tế là khó có thể xảy ra theo quy định tại đoạn 81. 20. Khi có nhiều nghĩa vụ
nợ tương tự nhau (Ví dụ các giấy bảo hành sản phẩm hoặc các hợp đồng giống nhau)
thì khả năng giảm sút lợi ích kinh tế do việc thanh toán nghĩa vụ nợ được xác
định thông qua việc xem xét toàn bộ nhóm nghĩa vụ nói chung. Mặc dù việc giảm
sút lợi kinh tế do việc thanh toán từng nghĩa vụ nợ là rất nhỏ, nhưng hoàn toàn
có thể làm giảm sút lợi ích kinh tế do việc thanh toán toàn bộ nhóm nghĩa vụ đó.
Trường hợp này, cần ghi nhận một khoản dự phòng nếu thoả mãn các điều kiện ghi
nhận khác. Ước tính đáng tin cậy về nghĩa vụ nợ
phải trả 21. Việc sử dụng các ước
tính là một phần quan trọng của việc lập báo cáo tài chính và không làm mất đi
độ tin cậy của báo cáo tài chính. Điều này đặc biệt đúng với các khoản mục dự
phòng mặc dù xét về tính chất các khoản mục dự phòng không chắc chắn bằng các
khoản mục khác trong Bảng cân đối kế toán. Ngoại trừ trường hợp đặc biệt, doanh
nghiệp phải xác định đầy đủ các điều kiện để có thể ước tính nghĩa vụ nợ để ghi
nhận một khoản dự phòng. 22. Trong các trường hợp
không thể ước tính nghĩa vụ nợ một cách đáng tin cậy, thì khoản nợ hiện tại
không được ghi nhận, mà phải được trình bày như một khoản nợ tiềm tàng theo quy
định tại đoạn 81. Nợ tiềm tàng 23. Doanh nghiệp không được ghi nhận một
khoản nợ tiềm tàng. 24. Khoản nợ tiềm tàng phải
được trình bày theo quy định tại đoạn 81, trừ khi xảy ra giảm sút lợi ích kinh
tế của doanh nghiệp. 25. Khi doanh nghiệp chịu
nghĩa vụ pháp lý chung hoặc riêng rẽ đối với một khoản nợ, thì phần nghĩa vụ dự
tính thuộc về các chủ thể khác được xem như một khoản nợ tiềm tàng. Doanh nghiệp
phải ghi nhận khoản dự phòng cho phần nghĩa vụ có thể xảy ra làm giảm sút lợi
ích kinh tế, trừ khi không đưa ra được cách ước tính đáng tin cậy. 26. Các khoản nợ tiềm tàng
thường xảy ra không theo dự tính ban đầu. Do đó chúng phải được ước tính thường
xuyên để xác định xem liệu sự giảm sút lợi ích kinh tế có xảy ra hay không. Nếu
sự giảm sút lợi ích kinh tế trong tương lai có thể xảy ra có liên quan đến một
khoản mục trước đây là một khoản nợ tiềm tàng, thì phải ghi nhận khoản dự phòng
đó vào báo cáo tài chính của kỳ kế toán có khả năng thay đổi ngoại trừ trường
hợp không đưa ra được cách ước tính đáng tin cậy. Tài sản tiềm tàng 27. Doanh nghiệp không được ghi nhận một tài sản tiềm tàng. 28. Tài sản tiềm tàng phát
sinh từ các sự kiện không có trong kế hoạch hoặc chưa được dự tính, dẫn đến khả
năng có thể thu được lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp. Ví dụ: một khoản được bồi
thường đang tiến hành các thủ tục pháp lý khi kết quả chưa chắc chắn. 29. Doanh nghiệp không được
ghi nhận tài sản tiềm tàng trên báo cáo tài chính vì điều này có thể dẫn đến
việc ghi nhận khoản thu nhập có thể không bao giờ thu được. Tuy nhiên, khi có
khoản thu nhập gần như chắc chắn thì tài sản liên quan đến nó không còn là tài
sản tiềm tàng và được ghi nhận vào báo cáo tài chính là hợp lý. 30. Khi có thể thu được lợi
ích kinh tế trong tương lai thì doanh nghiệp phải trình bày trong báo cáo tài
chính một tài sản tiềm tàng như quy định trong đoạn 84. 31. Tài sản tiềm tàng phải
được đánh giá thường xuyên để đảm bảo là đã được phản ánh một cách hợp lý trong
Bản thuyết minh báo cáo tài chính. Nếu doanh nghiệp gần như chắc chắn thu được
lợi ích kinh tế, thì tài sản và khoản thu nhập liên quan phải được ghi nhận trên
báo cáo tài chính của kỳ kế toán có khả năng thể xảy ra khoản thu nhập đó theo
quy định tại đoạn 84. Xác định giá trị 32. Giá trị ghi nhận một
khoản dự phòng phải là giá trị được ước tính hợp lý nhất về khoản tiền sẽ phải
chi để thanh toán nghĩa vụ nợ hiện tại tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm. 33. Giá trị ước tính hợp lý
nhất về khoản chi phí để thanh toán nghĩa vụ nợ hiện tại là giá trị mà doanh
nghiệp sẽ phải thanh toán nghĩa vụ nợ hoặc chuyển nhượng cho bên thứ ba tại ngày
kết thúc kỳ kế toán năm. Thường là không thể bỏ ra chi phí rất cao để thanh toán
hoặc chuyển nhượng nghĩa vụ nợ tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm. Tuy nhiên, cách
ước tính về giá trị mà doanh nghiệp phải suy tính để thanh toán hoặc chuyển
nhượng nghĩa vụ nợ sẽ đưa ra được giá trị ước tính đáng tin cậy nhất về chi phí
sẽ phải dùng để thanh toán nghĩa vụ hiện tại tại ngày kết thúc kỳ kế toán
năm. 34. Cách ước tính về kết
quả và ảnh hưởng tài chính đều được xác định thông qua đánh giá của Ban giám đốc
doanh nghiệp, được bổ sung thông qua kinh nghiệm từ các hoạt động tương tự và
các bản báo cáo của các chuyên gia độc lập. Các căn cứ có thể dựa trên bao gồm
cả các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm. 35. Có nhiều phương pháp
đánh giá để ghi nhận giá trị các khoản mục không chắc chắn là một khoản dự
phòng. Khi các khoản dự phòng được đánh giá là có liên quan đến nhiều khoản mục,
thì nghĩa vụ nợ sẽ được tính theo tất cả các kết quả có thể thu được với các xác
suất có thể xảy ra (phương pháp giá trị ước tính). Do đó, khoản dự phòng sẽ phụ
thuộc vào xác suất phát sinh khoản lỗ đã ước tính là bao nhiêu, ví dụ: 60% hay
90%. Nếu các kết quả ước tính đều tương đương nhau và liên tục trong một giới
hạn nhất định và mỗi điểm ở trong giới hạn đó đều có khả năng xảy ra như nhau
thì sẽ chọn điểm ở giữa trong giới hạn đó. Ví dụ Một doanh nghiệp bán hàng
cho khách hàng có kèm giấy bảo hành sửa chữa các hỏng hóc do lỗi sản xuất được
phát hiện trong vòng sáu tháng sau khi mua. Nếu tất cả các sản phẩm bán ra đều
có lỗi hỏng hóc nhỏ, thì tổng chi phí sửa chữa là 1 triệu đồng. Nếu tất cả các
sản phẩm bán ra đều có lỗi hỏng hóc lớn, thì tổng chi phí sửa chữa là 4 triệu
đồng. Kinh nghiệm cho thấy trong năm tới, 75% hàng hóa bán ra không bị hỏng hóc,
20% hàng hóa bán ra sẽ hỏng hóc nhỏ và 5% hàng hóa bán ra sẽ có hỏng hóc lớn.
Theo quy định tại đoạn 20, doanh nghiệp phải đánh giá xác suất xảy ra cho từng
mức chi phí sửa chữa cho toàn bộ các nghĩa vụ bảo hành. Giá trị ước tính chi phí
sửa chữa trong trường hợp trên sẽ là: (75% x 0) + (20% x 1 triệu) + (5% x 4
triệu) = 0,4 triệu đồng. 36. Khi đánh giá từng nghĩa
vụ một cách riêng rẽ, mỗi kết quả có nhiều khả năng xảy ra nhất sẽ là giá trị nợ
phải trả ước tính hợp lý nhất. Tuy nhiên, thậm chí trong trường hợp như thế,
doanh nghiệp cũng cần phải xét đến các kết quả khác nữa. Khi các kết quả khác
hoặc là hầu hết lớn hơn hoặc là hầu hết nhỏ hơn kết quả có nhiều khả năng xảy ra
nhất, thì giá trị ước tính đáng tin cậy nhất sẽ là giá trị cao hơn hoặc thấp hơn
đó. Ví dụ, doanh nghiệp buộc phải sửa chữa một hỏng hóc nghiêm trọng trong một
thiết bị lớn đã bán cho khách hàng, và kết quả có khả năng xảy ra nhất là sẽ tốn
1 triệu đồng để sửa chữa thành công lần đầu, nhưng nếu có khả năng phải sửa chữa
các lần tiếp theo thì phải đưa ra một khoản dự phòng có giá trị lớn hơn. 37. Khoản dự phòng phải
được ghi nhận trước thuế, vì các ảnh hưởng về thuế của khoản dự phòng và những
thay đổi trong các kết quả đó đã được quy định trong Chuẩn mực kế toán số 17
“Thuế thu nhập doanh nghiệp”. Rủi ro và các yếu tố không chắc chắn 38. Rủi ro và các yếu tố
không chắc chắn tồn tại xung quanh các sự kiện và các trường hợp phải được xem
xét khi xác định giá trị ước tính hợp lý nhất cho một khoản dự phòng. 39. Rủi ro thể hiện sự giảm
sút kết quả. Việc điều chỉnh rủi ro có thể làm tăng giá trị các khoản nợ đã được
ghi nhận. Doanh nghiệp cần phải thận trọng khi đưa ra những đánh giá trong các
điều kiện không chắc chắn để không làm sai lệch tăng thu nhập hay tài sản và
cũng không làm sai lệch giảm chi phí và các khoản nợ. Tuy nhiên, tình trạng
không chắc chắn không có nghĩa là tạo ra các khoản dự phòng quá mức hoặc khai
khống các khoản nợ một cách cố ý. Ví dụ: Nếu các khoản chi phí dự tính cho một
rủi ro nào đó được ước tính trên cơ sở thận trọng, thì không nên chủ quan xem
kết quả đó là có khả năng xảy ra hơn các trường hợp thực tế khác. Doanh nghiệp
cần phải chú ý để tránh các bước đánh giá trùng lặp đối với rủi ro và sự không
chắc chắn dẫn đến làm tăng các khoản dự phòng. 40. Việc thuyết minh yếu tố
không chắc chắn đối với giá trị của các khoản chi trả được quy định tại đoạn 80
(b). Giá trị hiện tại 41. Nếu ảnh hưởng về giá
trị thời gian của tiền là trọng yếu, thì giá trị của một khoản dự phòng cần được
xác định là giá trị hiện tại của khoản chi phí dự tính để thanh toán nghĩa vụ
nợ. 42. Phụ thuộc vào giá trị
thời gian của tiền, các khoản dự phòng liên quan đến các luồng tiền ra phát sinh
ngay sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm có giá trị thực cao hơn các khoản dự phòng
có cùng giá trị liên quan đến các luồng tiền ra phát sinh muộn hơn. Do đó các
khoản dự phòng đều phải được chiết khấu khi giá trị thời gian của tiền có ảnh
hưởng trọng yếu. 43. Tỷ lệ chiết khấu phải
là tỷ lệ trước thuế và phản ảnh rõ những ước tính trên thị trường hiện tại về
giá trị thời gian của tiền và rủi ro cụ thể của khoản nợ đó. Tỷ lệ chiết khấu
không được phản ánh rủi ro đã tính đến của giá trị ước tính luồng tiền trong
tương lai . Các sự kiện xảy ra trong tương lai 44. Những sự kiện xảy ra
trong tương lai có thể ảnh hưởng đến giá trị đã ước tính để thanh toán nghĩa vụ
nợ thì phải được phản ánh vào giá trị của khoản dự phòng khi có đủ dấu hiệucho
thấy các sự kiện đó sẽ xảy ra. 45. Những sự kiện dự tính
sẽ xảy ra trong tương lai có thể rất quan trọng khi đánh giá các khoản dự phòng.
Ví dụ, doanh nghiệp có thể cho rằng chi phí thanh lý tài sản vào cuối thời gian
sử dụng của tài sản sẽ giảm do những thay đổi về công nghệ trong tương lai. Giá
trị được ghi nhận đã phản ánh cách ước tính hợp lý của các nhà nghiên cứu có
trình độ kỹ thuật và khách quan có tính đến các bằng chứng về công nghệ tại thời
điểm thanh lý. Do vậy, việc giảm giá trị dự phòng bằng một khoản tương đương với
chi phí tiết kiệm được là hợp lý khi các khoản chi phí này được cắt giảm do kinh
nghiệm đã thu được khi áp dụng công nghệ hiện có của hoạt động thanh lý có nhiều
phức tạp hoặc có qui mô lớn hơn so với hoạt động đã tiến hành trước đây. Tuy
nhiên, doanh nghiệp khó có thể đoán trước được sự phát triển của kỹ thuật công
nghệ mới áp dụng cho việc thanh lý tài sản, trừ khi có đầy đủ bằng chứng khách
quan. 46. Khi đánh giá nghĩa vụ
nợ phải xét đến ảnh hưởng có thể xảy ra của các quy định mới nếu có đủ bằng
chứng khách quan cho thấy qui định này chắc chắn được thông qua. Do có nhiều
trường hợp phát sinh nên không thể xác định được từng sự kiện riêng biệt để đưa
ra đầy đủ bằng chứng khách quan cho mọi trường hợp. Bằng chứng được yêu cầu gồm
cả qui định cần phải áp dụng và xem xét qui định này có thông qua chắc chắn và
được đem ra áp dụng vào thời điểm thích hợp hay không. Trong một số trường hợp
sẽ không đưa ra được bằng chứng khách quan, đầy đủ cho đến khi qui định mới được
thông qua. Thanh lý tài sản dự tính 47. Lãi từ hoạt động thanh lý tài sản dự tính không được xét
đến khi xác định giá trị của khoản dự phòng. 48. Không được tính các
khoản lãi từ hoạt động thanh lý tài sản khi xác định giá trị khoản dự phòng,
ngay cả khi hoạt động thanh lý dự tính gắn liền với sự kiện làm phát sinh khoản
dự phòng đó. Thay vào đó, doanh nghiệp phải ghi nhận các khoản lãi từ hoạt động
thanh lý tài sản đã dự tính tại thời điểm quy định trong các Chuẩn mực kế toán
liên quan. Các khoản bồi hoàn 49. Khi một phần hay toàn bộ chi phí để thanh toán một khoản
dự phòng dự tính được bên khác bồi hoàn thì khoản bồi hoàn này chỉ được ghi nhận
khi doanh nghiệp chắc chắn sẽ nhận được khoản bồi hoàn đó. Khoản bồi hoàn này
phải được ghi nhận như một tài sản riêng biệt. Giá trị ghi nhận của khoản bồi
hoàn không được vượt quá giá trị khoản dự phòng. 50. Trong Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, chi phí liên
quan đến khoản dự phòng có thể được trình bày theo giá trị sau khi trừ giá trị
khoản bồi hoàn được ghi nhận. 51. Trong một số trường
hợp, doanh nghiệp có thể tìm kiếm một bên thứ ba để thanh toán một phần hay toàn
bộ chi phí cho khoản dự phòng (ví dụ, thông qua các hợp đồng bảo hiểm, các điều
khoản bồi thường hoặc các giấy bảo hành của nhà cung cấp). Bên thứ ba có thể
thanh toán trực tiếp hoặc hoàn trả lại các khoản doanh nghiệp đã thanh toán. 52. Hầu hết các trường hợp,
doanh nghiệp đều phải chịu và phải thanh toán toàn bộ các nghĩa vụ nợ nếu bên
thứ ba không có khả năng bồi hoàn do bất kỳ nguyên nhân nào. Trường hợp này,
phải ghi nhận khoản dự phòng cho toàn bộ giá trị của khoản nợ, và phải ghi nhận
khoản bồi hoàn đã dự tính là tài sản khi chắc chắn sẽ nhận được khoản bồi hoàn
đó nếu doanh nghiệp thanh toán khoản nợ. 53. Có trường hợp, doanh
nghiệp không phải chịu các khoản chi phí chưa rõ ràng nếu bên thứ ba không thực
hiện thanh toán. Trường hợp doanh nghiệp không phải chịu các khoản chi phí thì
các khoản chi phí này không được đưa vào khoản dự phòng. 54. Theo quy định trong
đoạn 25, một khoản nợ khi doanh nghiệp phải chịu nghĩa vụ pháp lý chung hoặc
riêng sẽ được ghi nhận là nợ tiềm tàng trong phạm vi dự tính nghĩa vụ sẽ được
bên thứ ba thanh toán. Thay đổi các khoản dự phòng 55. Các khoản dự phòng phải được xem xét lại và điều chỉnh
tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm để phản ánh ước tính hợp lý nhất ở thời điểm
hiện tại. Nếu doanh nghiệp chắc chắn không phải chịu sự giảm sút về lợi ích kinh
tế do không phải chi trả nghĩa vụ nợ thì khoản dự phòng đó phải được hoàn
nhập. 56. Khi sử dụng phương pháp
chiết khấu, giá trị ghi sổ của một khoản dự phòng tăng lên trong mỗi kỳ kế toán
năm để phản ánh ảnh hưởng của yếu tố thời gian. Phần giá trị tăng lên này phải
được ghi nhận là chi phí đi vay. Sử dụng các khoản dự phòng 57. Chỉ nên sử dụng một khoản dự phòng cho những chi phí mà
khoản dự phòng đó đã được lập từ ban đầu. 58. Chỉ những khoản chi phí
liên quan đến khoản dự phòng đã được lập ban đầu mới được bù đắp bằng khoản dự
phòng đó. Việc sử dụng khoản dự phòng cho các chi phí không liên quan đến
khoản dự phòng đó hoặc cho các chi phí liên quan đến khoản dự phòng được lập cho
mục đích khác có thể không thể hiện ảnh hưởng của hai sự kiện khác nhau. Áp dụng nguyên tắc ghi nhận và xác định giá trị Các khoản lỗ hoạt động trong tương lai 59. Doanh nghiệp không được ghi nhận khoản dự phòng cho các
khoản lỗ hoạt động trong tương lai. 60. Khoản lỗ hoạt động
trong tương lai là khoản không thoả mãn định nghĩa về một khoản nợ phải trả quy
định trong đoạn 07 và điều kiện ghi nhận các khoản dự phòng ở đoạn 11. 61. Mỗi ước tính về khoản
lỗ hoạt động xảy ra trong tương lai đều là dấu hiệu về sự tổn thất của một số
tài sản dùng trong kinh doanh. Doanh nghiệp phải tiến hành kiểm tra việc tổn
thất đối với những tài sản này. Các hợp đồng có rủi ro lớn 62. Nếu doanh nghiệp có hợp đồng có rủi ro lớn, thì nghĩa vụ
nợ hiện tại theo hợp đồng phải được ghi nhận và đánh giá như một khoản dự
phòng. 63. Nhiều hợp đồng (Ví dụ:
Đơn mua hàng thường xuyên) có thể bị huỷ bỏ mà không phải thanh toán bồi thường,
tức là không phát sinh nghĩa vụ nợ. Các hợp đồng có qui định rõ quyền và nghĩa
vụ đối với từng bên tham gia ký kết hợp đồng thì khi phát sinh sự kiện rủi ro,
hợp đồng đó sẽ thuộc phạm vi chi phối của chuẩn mực này và khoản nợ phải trả
phát sinh được ghi nhận. Những hợp đồng thông thường mà không có rủi ro lớn thì
không thuộc phạm vi áp dụng của chuẩn mực này. 64. Chuẩn mực này qui định
hợp đồng có rủi ro lớn là hợp đồng mà trong đó, chi phí bắt buộc phải trả cho
các nghĩa vụ liên quan đến hợp đồng vượt quá lợi ích kinh tế dự tính thu được từ
hợp đồng đó. Các chi phí bắt buộc phải trả theo điều khoản của hợp đồng phản ánh
chi phí thấp nhất nếu từ bỏ hợp đồng. Mức chi phí đó sẽ thấp hơn mức chi phí để
thực hiện hợp đồng, kể cả các khoản bồi thường hoặc đền bù phát sinh do việc
không thực hiện được hợp đồng. 65. Trước khi lập một khoản
dự phòng riêng biệt cho một hợp đồng có rủi ro lớn, doanh nghiệp phải ghi nhận
bất kỳ sự giảm sút giá trị nào của tài sản có liên quan đến hợp đồng đó. Tái cơ cấu doanh nghiệp 66. Ví dụ về những sự kiện
nằm trong định nghĩa về "tái cơ cấu doanh nghiệp": a) Bán hoặc chấm dứt một
dây chuyền sản xuất sản phẩm; b) Đóng cửa cơ sở kinh
doanh ở một địa phương, một quốc gia khác hoặc chuyển đổi hoạt động kinh doanh
từ địa phương này, quốc gia này sang một địa phương hoặc một quốc gia khác; c) Thay đổi cơ cấu bộ máy
quản lý, ví dụ loại bỏ một cấp quản lý; d) Hoạt động tái cơ cấu cơ
bản sẽ gây ra tác động lớn đến bản chất và mục tiêu hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. 67. Khoản dự phòng cho chi
phí tái cơ cấu doanh nghiệp chỉ được ghi nhận khi các điều kiện chung đối với
khoản dự phòng như quy định trong đoạn 11 được thoả mãn. Các đoạn 69 - 78 chỉ rõ
làm thế nào để áp dụng các điều kiện chung cho hoạt động tái cơ cấu doanh
nghiệp. 68. Khi tiến hành tái cơ cấu doanh nghiệp thì nghĩa vụ liên
đới chỉ phát sinh khi: a) Có kế hoạch chính thức, cụ thể để xác định rõ việc tái cơ
cấu doanh nghiệp, trong đó phải thoả mãn ít nhất 5 nội dung sau: (i) Thay đổi toàn bộ hoặc một phần hoạt động kinh doanh; (ii) Các vị trí quan trọng bị ảnh hưởng; (iii) Vị trí, nhiệm vụ và số lượng nhân viên ước tính sẽ
được nhận bồi thường khi họ buộc phải thôi việc; (iv) Các khoản chi phí sẽ phải chi trả; và (v) Khi kế hoạch được thực hiện. b) Đưa danh sách chủ thể chắc chắn bị ảnh hưởng ; thực
hiện kế hoạch tái cơ cấu hoặc thông báo các vấn đề quan trọng đến những chủ thể
bị ảnh hưởng của việc tái cơ cấu. 69. Bằng chứng cho thấy
doanh nghiệp đã tiến hành kế hoạch tái cơ cấu.Ví dụ: Tháo dỡ nhà xưởng, bán tài
sản hoặc thông báo công khai về những vấn đề quan trọng của kế hoạch. Thông báo
công khai về một kế hoạch tái cơ cấu cụ thể sẽ dẫn đến một nghĩa vụ nợ pháp lý
khi kế hoạch đó được thực hiện theo dự tính và đầy đủ chi tiết (tức là phải chỉ
rõ những vấn đề quan trọng của kế hoạch) từ đó đưa ra dự tính chắc chắn về những
chủ thể có liên quan như khách hàng, các nhà cung cấp, các nhân viên (hoặc những
người đại diện cho họ) để doanh nghiệp có thể tiến hành tái cơ cấu. 70. Để kế hoạch có đủ chi
tiết liên quan đến nghĩa vụ nợ khi thông báo đến những đối tượng bị ảnh hưởng,
thì phải lập và thực hiện kế hoạch càng sớm càng tốt, phải hoàn tất kế hoạch
trong khoảng thời gian dự tính. Nếu doanh nghiệp dự tính vẫn còn một khoảng thời
gian dài trước khi tiến hành tái cơ cấu hoặc quá trình tái cơ cấu phải mất một
thời gian dài bất hợp lý, thì không thể chắc chắn là kế hoạch sẽ được thực hiện
đúng thời gian cho phép. 71. Nếu quyết định tái cơ
cấu của Ban Giám đốc đưa ra trước ngày kết thúc kỳ kế toán năm thì không dẫn đến
nghĩa vụ nợ liên đới tại ngày đó, trừ khi trước ngày kết thúc kỳ kế toán năm
doanh nghiệp đã: a) Bắt đầu thực hiện kế
hoạch tái cơ cấu; hoặc b) Thông báo những vấn đề
quan trọng của kế hoạch tái cơ cấu cho những đối tượng bị ảnh hưởng theo một
cách cụ thể, đầy đủ để họ có được dự tính chắc chắn về việc doanh nghiệp sẽ tiến
hành tái cơ cấu. Nếu doanh nghiệp bắt đầu
thực hiện kế hoạch tái cơ cấu, hoặc thông báo những vấn đề quan trọng của kế
hoạch đó tới những đối tượng bị ảnh hưởng sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm thì
việc trình bày trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính được thực hiện theo quy
định tại Chuẩn mực kế toán số 23 “Các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc kỳ kế
toán năm”. Nếu việc tái cơ cấu là trọng yếu mà không được trình bày trong báo
cáo tài chính thì có thể ảnh hưởng đến việc đưa ra quyết định kinh tế của người
sử dụng báo cáo tài chính. 72. Nghĩa vụ nợ liên đới
không chỉ được tạo ra từ quyết định của Ban Giám đốc. Nghĩa vụ nợ liên đới có
thể là kết quả của các sự kiện đã xảy ra: Ví dụ, thoả thuận với đại diện của
người làm công về các khoản thanh toán khi họ thôi việc, hoặc thoả thuận với
người mua khi nhượng bán một bộ phận kinh doanh của doanh nghiệp. Một khi đã đạt
được sự chấp thuận có thể đã được kết luận chỉ chờ chấp thuận của Hội đồng quản
trị và được thông báo đến chủ thể đối tác thì lúc đó doanh nghiệp có nghĩa vụ
thực hiện tái cơ cấu nếu thoả mãn các điều kiện quy định tại đoạn 68. 73. Không có nghĩa vụ nợ phát sinh cho tới khi doanh nghiệp
ký cam kết nhượng bán, tức là khi doanh nghiệp có hợp đồng nhượng bán hiện
tại. 74. Khi doanh nghiệp quyết
định nhượng bán một bộ phận kinh doanh và thông báo công khai quyết định đó, thì vẫn
chưa được coi là cam kết cho đến khi xác định được người mua và hợp đồng nhượng
bán được ký kết. Từ khi quyết định đến khi ký kết hợp đồng nhượng bán ràng buộc,
doanh nghiệp vẫn có thể thực hiện các hoạt động khác nếu không tìm được người
mua với điều khoản phù hợp. Khi công việc nhượng bán một bộ phận kinh doanh chỉ
là một phần của việc tái cơ cấu, thì tài sản hoạt động phải được xem xét lại xem
có tổn thất không và nghĩa vụ nợ liên đới có thể phát sinh từ các phần khác của
việc tái cơ cấu trước khi một hợp đồng hiện tại được ký kết. 75. Một khoản dự phòng cho việc tái cơ cấu chỉ được dự tính
cho những chi phí trực tiếp phát sinh từ hoạt động tái cơ cấu, đó là những chi
phí thoả mãn cả hai điều kiện: a) Cần phải có cho hoạt động tái cơ cấu; và b) Không liên quan đến hoạt động thường xuyên của doanh
nghiệp. 76. Một khoản dự phòng cho
việc tái cơ cấu không bao gồm các chi phí như: a) Đào tạo lại hoặc thuyên
chuyển nhân viên hiện có; b) Tiếp thị; hoặc c) Đầu tư vào những hệ
thống mới và các mạng lưới phân phối. Những chi phí này liên quan
đến hoạt động trong tương lai của doanh nghiệp và không phải là các khoản nợ
phải trả cho việc tái cơ cấu tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm. Các chi phí này
phải được ghi nhận theo nguyên tắc ghi nhận các chi phí không liên quan tới việc
tái cơ cấu. 77. Những khoản lỗ từ hoạt
động kinh doanh trong tương lai có thể xác định được tính đến ngày tái cơ cấu
thì không được bao gồm trong khoản dự phòng, trừ khi chúng liên quan đến một hợp
đồng có rủi ro lớn như đã quy định trong đoạn 07. 78. Lãi dự tính thu được từ
hoạt động thanh lý tài sản, ngay cả khi việc thanh lý tài sản được xem như một
phần của hoạt động tái cơ cấu, không được xét đến khi xác định mức dự phòng cho
việc tái cơ cấu, như đã quy định trong đoạn 47. Trình bày báo cáo tài chính 79. Doanh nghiệp phải trình bày trong báo cáo tài chính từng
loại dự phòng theo các khoản mục: a) Số dư đầu kỳ và cuối kỳ; b) Số dự phòng tăng do các khoản dự phòng trích lập bổ sung
trong kỳ, kể cả việc tăng các khoản dự phòng hiện có; c) Số dự phòng giảm trong kỳ do phát sinh các khoản chi phí
liên quan đến khoản dự phòng đó đã được lập từ ban đầu; d) Số dự phòng không sử dụng đến được ghi giảm (hoàn nhập)
trong kỳ; và e) Số dự phòng tăng trong kỳ do giá trị hiện tại của khoản
dự phòng tăng lên theo thời gian và do ảnh hưởng của việc thay đổi tỷ lệ chiết
khấu dòng tiền. Doanh nghiệp không phải trình bày thông tin so sánh về các
khoản dự phòng. 80. Đối với mỗi loại dự phòng có giá trị trọng yếu, doanh
nghiệp phải trình bày các thông tin sau: a) Tóm tắt bản chất của nghĩa vụ nợ và thời gian chi trả dự
tính; b) Dấu hiệu cho thấy có sự không chắc chắn về giá trị hoặc
thời gian của các khoản chi trả. Khi cần đưa ra thông tin đầy đủ thì doanh
nghiệp phải trình bày những giả định chính liên quan đến các sự kiện xảy ra
trong tương lai, như đã quy định trong đoạn 44; và c) Giá trị của khoản bồi hoàn dự tính nhận được nếu giá trị
của tài sản đã được ghi nhận liên quan đến khoản bồi hoàn dự tính đó. 81. Trừ khi khó xảy ra khả năng phải chi trả, doanh nghiệp
phải trình bày tóm tắt bản chất của khoản nợ tiềm tàng tại ngày kết thúc kỳ kế
toán năm cùng với các thông tin sau: a) Ước tính về ảnh hưởng tài chính của khoản nợ tiềm tàng
này theo quy định ở các đoạn 32 - 48; b) Dấu hiệu không chắc chắn liên quan đến giá trị hoặc thời
gian của các khoản chi trả có thể xảy ra; và c) Khả năng nhận được các khoản bồi hoàn. 82. Khi xác định các khoản dự phòng hoặc các khoản nợ tiềm
tàng có thể tập hợp thành một loại để trình bày báo cáo tài chính thì cần phải
cân nhắc xem liệu bản chất của các khoản mục đó có tương đồng với nhau đủ để
trình bày chung trong một khoản mục trên báo cáo mà vẫn thoả mãn quy định ở các
đoạn 80 (a), (b) và 81 (a), (b). Ví dụ, hoàn toàn có thể nhóm chung các khoản dự
phòng liên quan đến việc bảo hành các sản phẩm khác nhau, nhưng lại không thể
nhóm chung dự phòng bảo hành thông thường và các khoản phải trả liên quan đến vụ
kiện. 83. Khi một khoản dự phòng và một khoản nợ tiềm tàng phát
sinh từ cùng một tình huống thì doanh nghiệp phải trình bày theo quy định ở đoạn
79 - 81 đồng thời chỉ rõ mối liên hệ giữa khoản dự phòng và nợ tiềm tàng đó. 84. Khi có thể thu được một số lợi ích kinh tế thì doanh
nghiệp phải trình bày tóm tắt về bản chất của các tài sản tiềm tàng tại ngày kết
thúc kỳ kế toán năm, và khi có thể, trình bày ước tính về ảnh hưởng tài chính
của chúng theo các nguyên tắc đã qui định tại đoạn 32 - 48 đối với các khoản dự
phòng . 85. Việc trình bày các tài sản tiềm tàng trong Bản thuyết
minh báo cáo tài chính phải tránh đưa ra các dấu hiệu sai lệch về khả năng có
thể xảy ra khoản thu nhập phát sinh. 86. Nếu không thể trình bày được thông tin nào quy định
trong đoạn 81 và 84, doanh nghiệp phải nêu rõ trong Bản thuyết minh báo cáo tài
chính. 87. Trong một số trường hợp, việc trình bày một số hay toàn
bộ các thông tin như quy định trong các đoạn 79 - 84 có thể gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến vị thế của doanh nghiệp trong việc tranh chấp với các chủ thể khác
liên quan đến nội dung của khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng thì doanh
nghiệp phải trình bày bản chất chung của vấn đề đang tranh chấp và lý do không
trình bày những thông tin này./. |
ĐƠN VỊ HỖ TRỢ
|