|
KẾ TOÁN - THUẾ - DOANH NGHIỆP - LAO ĐỘNG |
|
Điều
56. Nguyên tắc kế toán doanh thu 1.
Doanh thu là lợi ích kinh tế thu được làm tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp
trừ phần vốn góp thêm của các cổ đông. Doanh thu được ghi nhận tại thời điểm
giao dịch phát sinh, khi chắc chắn thu được lợi ích kinh tế, được xác định theo
giá trị hợp lý của các khoản được quyền nhận, không phân biệt đã thu tiền hay sẽ
thu được tiền. 2.
Doanh thu và chi phí tạo ra khoản doanh thu đó phải được ghi nhận đồng thời theo
nguyên tắc phù hợp. Tuy nhiên trong một số trường hợp, nguyên tắc phù hợp có thể
xung đột với nguyên tắc thận trọng trong kế toán, thì kế toán phải căn cứ vào
bản chất giao dịch để phản ánh một cách trung thực, hợp
lý. -
Một hợp đồng kinh tế có thể bao gồm nhiều giao dịch. Kế toán phải nhận biết các
giao dịch để áp dụng các điều kiện ghi nhận doanh thu phù
hợp. -
Doanh thu phải được ghi nhận phù hợp với bản chất hơn là hình thức hoặc tên gọi
của giao dịch và phải được phân bổ theo nghĩa vụ cung ứng hàng hóa, dịch
vụ. +
Ví dụ: Khách hàng chỉ được nhận hàng khuyến mại khi mua sản phẩm hàng hóa của
đơn vị (như mua 2 sản phẩm được tặng thêm một sản phẩm) thì bản chất giao dịch
là giảm giá hàng bán, sản phẩm tặng miễn phí cho khách hàng về hình thức được
gọi là khuyến mại nhưng về bản chất là bán vì khách hàng sẽ không được hưởng nếu
không mua sản phẩm. Trường hợp này giá trị sản phẩm tặng cho khách hàng được
phản ánh vào giá vốn và doanh thu tương ứng với giá trị hợp lý của sản phẩm đó
phải được ghi nhận. -
Đối với các giao dịch làm phát sinh nghĩa vụ của người bán ở thời điểm hiện tại
và trong tương lai, doanh thu phải được phân bổ theo giá trị hợp lý của từng
nghĩa vụ và được ghi nhận khi nghĩa vụ đã được thực hiện. 3.
Doanh thu, lãi hoặc lỗ chỉ được coi là chưa thực hiện nếu doanh nghiệp còn có
trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ trong tương lai (trừ nghĩa vụ bảo hành thông
thường) và chưa chắc chắn thu được lợi ích kinh tế; Việc phân loại các khoản
lãi, lỗ là thực hiện hoặc chưa thực hiện không phụ thuộc vào việc đã phát sinh
dòng tiền hay chưa. Các
khoản lãi, lỗ phát sinh do đánh giá lại tài sản, nợ phải trả không được coi là
chưa thực hiện do tại thời điểm đánh giá lại, đơn vị đã có quyền đối với tài sản
và đã có nghĩa vụ nợ hiện tại đối với các khoản nợ phải trả, ví dụ: Các khoản
lãi, lỗ phát sinh do đánh giá lại tài sản mang đi góp vốn đầu tư vào đơn vị
khác, đánh giá lại các tài sản tài chính theo giá trị hợp lý đều được coi là đã
thực hiện. 4.
Doanh thu không bao gồm các khoản thu hộ bên thứ ba, ví
dụ; -
Các loại thuế gián thu (thuế GTGT, thuế xuất khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế
bảo vệ môi trường) phải nộp; -
Số tiền người bán hàng đại lý thu hộ bên chủ hàng do bán hàng đại
lý; -
Các khoản phụ thu và phí thu thêm ngoài giá bán đơn vị không được
hưởng; -
Các trường hợp khác. Trường
hợp các khoản thuế gián thu phải nộp mà không tách riêng ngay được tại thời điểm
phát sinh giao dịch thì để thuận lợi cho công tác kế toán, có thể ghi nhận doanh
thu trên sổ kế toán bao gồm cả số thuế gián thu nhưng định kỳ kế toán phải ghi
giảm doanh thu đối với số thuế gián thu phải nộp. Tuy nhiên, khi lập Báo cáo tài
chính, kế toán bắt buộc phải xác định và loại trừ toàn bộ số thuế gián thu phải
nộp ra khỏi các chỉ tiêu phản ánh doanh thu gộp. 5.
Thời điểm, căn cứ để ghi nhận doanh thu kế toán và doanh thu tính thuế có thể
khác nhau tùy vào từng tình huống cụ thể. Doanh thu tính thuế chỉ được sử dụng
để xác định số thuế phải nộp theo quy định của pháp luật; Doanh thu ghi nhận
trên sổ kế toán để lập Báo cáo tài chính phải tuân thủ các nguyên tắc kế toán và
tùy theo từng trường hợp không nhất thiết phải bằng số đã ghi trên hóa đơn bán
hàng. 6.
Doanh thu được ghi nhận chỉ bao gồm doanh thu của kỳ báo cáo. Các tài khoản phản
ánh doanh thu không có số dư, cuối kỳ kế toán phải kết chuyển doanh thu để xác
định kết quả kinh doanh. |
ĐƠN VỊ HỖ TRỢ
|